Hôm nay nhân ngày 19 tháng 7 mình xin chia sẽ câu chuyện mà mình và một số bạn đã trãi nghiệm. Lúc trước có một bạn sinh viên làm đề tài bên chuyên ngành khác lớp mình chủ nhiệm. Thời gian chỉ còn một tuần nửa là hết thời gian và bạn đó đã đến nhờ mình giúp, mình có nhờ một số bạn bè giúp nhưng không được và mình đã nói với bạn đó Thầy đã từng rơi vào hoàn cảnh bế tắc như em và lúc đó Thầy đã đọc kinh của Phật Quan Âm với Lòng Thành Kính và Nhất tâm (Chỉ tập trung vào Kinh). Không lâu sau mọi việc trở nên tốt đẹp và cuộc sống vui vẻ. Và người học trò đó đã thành tâm đọc kinh và cầu nguyện. Điều bất ngờ đã xảy đến trong vòng 1 tuần gần tưởng như đi vào bế tắc nhưng học trò đó đã cài đặt thành công ứng dụng trong vòng 1 tuần.
Câu chuyện thứ 2 là một người bạn của mình hằng ngày thường xuyên đọc kinh Phật Quân Âm 21 lần. Bạn đó thường kể lúc trước bạn đó tính toán nhiều việc lắm. Nhưng không thành công. Bây giờ bạn đó để mọi việc tự nhiên đến và thực hiện. Nhưng mình cảm thấy cuộc sống và gia đình bận ấy rất tốt. Bạn đó từng kể có những lúc nguy hiểm gần trong gan tất nhưng rồi từ nhiên mình vượt qua.
Và mình đã từng nghe những khó khăn là nhân quả của mình nếu không trả thì kiếp sau mình cũng phải trả. Vì vậy việc đọc kinh, cầu nguyện, thiền, ấn tống kinh sách làm việc thiện công đức vô lượng.
Vì vậy hôm nay mình chia sẽ bài kinh cứu khổ của Phật Quan Âm kính chúc mọi người được vui vẻ, bình an và hạnh phúc. Nguyện chia công đức về các Đấng, Phật Quan Âm, Cửu Huyền, Cha Mẹ, mọi người.
Ấn tống kinh sách công đức Vô Lượng. Các bạn có thể chia sẽ bài kinh này đến bạn bè người thân và nguyện hồi hướng công đức này đến Các Đấng, Phật Quan Âm, Cha Mẹ của mình và mọi người. Xin chân thành cảm ơn.
Câu chuyện thứ 2 là một người bạn của mình hằng ngày thường xuyên đọc kinh Phật Quân Âm 21 lần. Bạn đó thường kể lúc trước bạn đó tính toán nhiều việc lắm. Nhưng không thành công. Bây giờ bạn đó để mọi việc tự nhiên đến và thực hiện. Nhưng mình cảm thấy cuộc sống và gia đình bận ấy rất tốt. Bạn đó từng kể có những lúc nguy hiểm gần trong gan tất nhưng rồi từ nhiên mình vượt qua.
Và mình đã từng nghe những khó khăn là nhân quả của mình nếu không trả thì kiếp sau mình cũng phải trả. Vì vậy việc đọc kinh, cầu nguyện, thiền, ấn tống kinh sách làm việc thiện công đức vô lượng.
Vì vậy hôm nay mình chia sẽ bài kinh cứu khổ của Phật Quan Âm kính chúc mọi người được vui vẻ, bình an và hạnh phúc. Nguyện chia công đức về các Đấng, Phật Quan Âm, Cửu Huyền, Cha Mẹ, mọi người.
Ấn tống kinh sách công đức Vô Lượng. Các bạn có thể chia sẽ bài kinh này đến bạn bè người thân và nguyện hồi hướng công đức này đến Các Đấng, Phật Quan Âm, Cha Mẹ của mình và mọi người. Xin chân thành cảm ơn.
KINH CỨU KHỔ:
KINH:
Nam mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát, (3 lần)
Nam mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật.
Phật cáo A-Nan ngôn, thử kinh Đại Thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai, bá nạn khổ.
Nam mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát, (3 lần)
Nam mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật.
Phật cáo A-Nan ngôn, thử kinh Đại Thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai, bá nạn khổ.
DỊCH NGHĨA:
Xin cầu nguyện với Đức Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát, (tụng 3 lần)
Xin cầu nguyện với Đức Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, trăm ngàn muôn ức Phật, vô số Phật, chư Phật có công đức nhiều không thể đo lường hết được.
Lời của Phật bảo Ông A-Nan, quyển kinh nầy của vị Đại Thánh (Phật), có khả năng cứu khỏi ngục tù, có khả năng cứu khỏi bịnh nặng, có khả năng cứu được 3 tai họa lớn, và trăm thứ tai nạn khổ sở.
Xin cầu nguyện với Đức Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát, (tụng 3 lần)
Xin cầu nguyện với Đức Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, trăm ngàn muôn ức Phật, vô số Phật, chư Phật có công đức nhiều không thể đo lường hết được.
Lời của Phật bảo Ông A-Nan, quyển kinh nầy của vị Đại Thánh (Phật), có khả năng cứu khỏi ngục tù, có khả năng cứu khỏi bịnh nặng, có khả năng cứu được 3 tai họa lớn, và trăm thứ tai nạn khổ sở.
CHÚ THÍCH
Kinh Cứu Khổ là bài kinh tụng lên để cầu nguyện với Đức Quan Thế Âm Bồ Tát thị hiện đến cứu khổ cứu nạn khi gặp trường hợp tai nạn hiểm nghèo không phương tự giải thoát được.
Nam mô: Xin cầu nguyện với. ( Nam mô: do tiếng Phạn là Namah phiên âm ra, có nghĩa là: Qui y, qui mạng, chí tâm hướng, tức là quyết chí vâng theo lời Phật dạy, nguyện hiến trọn đời mình cho Đạo pháp. Về sau, từ ngữ Nam mô thường dùng làm tiếng khởi đầu cho câu cầu nguyện).
Đại Từ, Đại Bi: Đại là lớn, Từ là lòng thương tưởng lo lắng giúp ích cho cả chúng sanh được an ổn vui vẻ, Bi là lòng trắc ẩn thương cảm các cảnh khổ não của chúng sanh và muốn cứu vớt chúng sanh ra khỏi phiền não và tai họa.
Quảng đại: Lòng dạ rộng rãi. Linh: Thiêng liêng.
Quan Thế Âm Bồ Tát: Quan, cũng đọc là Quán: Xét thấu, xem xét rõ biết hết, Thế là cõi trần, Âm là tiếng nói, âm thinh, Bồ Tát là phẩm vị Bồ Tát. Quan Thế Âm Bồ Tát là vị Nữ Phật có pháp lực vô biên, có thể hiện ra 11 cái mặt, 1000 cánh tay, 1000 con mắt, để xem xét, nghe biết tiếng kêu cứu của chúng sanh khắp nơi trên cõi trần. Hễ ai thành tâm niệm tưởng và cầu cứu đến Ngài thì Ngài liền nghe biết và hiện đến cứu giúp cho tai qua nạn khỏi. Công đức của Ngài nhiều vô kể, xứng đáng đắc thành vị Phật cao siêu, nhưng Ngài vẫn muốn làm một vị Bồ Tát để thực hành Đại nguyện Cứu khổ Cứu nạn cho chúng sanh.
Trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vâng lịnh Đức Chí Tôn giữ chức Nhị Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Phật giáo.
Bá thiên vạn ức: Trăm, ngàn, muôn, 10 muôn, chỉ một số lượng nhiều lắm, không đếm hết được.
Hằng hà sa số: Nghĩa đen là: Số cát sông Hằng bên Ấn Độ. Nghĩa bóng là nhiều lắm, không đếm hết được.
Vô lượng công đức: Vô lượng là không đo lường được. Vô lượng công đức là công đức nhiều đến nỗi không thể đo lường hết được.
Phật cáo: Đức Phật bảo cho biết.
Phật cáo A-Nan ngôn: Lời của Phật bảo Ông A-Nan.
A-Nan: Tiếng Phạn là Ananda. Ông A-Nan là 1 trong 10 Đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca, sau được Nhứt Tổ Ma-Ha Ca-Diếp truyền Y bát để làm Nhị Tổ Phật giáo Ấn Độ.
Ông A-Nan nổi tiếng là người đa văn quảng kiến và có một trí nhớ tuyệt vời. Khi Đức Phật Thích Ca thuyết pháp, ông chú ý lắng nghe và nhớ được tất cả, có thể lập lại lời Phật mà không sai một tiếng. Do đó, sau khi Đức Phật tịch diệt, trong Đại Hội 500 A-La-Hán kết tập kinh điển lần thứ nhứt, ông A-Nan lên diễn đàn đọc lại tất cả lời Phật dạy một cách trung thực, ghi chép lại thành Kinh Tạng của Phật giáo.
Trong các ngôi chùa Việt Nam, trên điện thờ Phật, có đặt tượng ông A-Nan bên trái, biểu tượng bậc Thánh xem xét hư thực đúng sai trong các việc tổ chức đàn chay tại chùa.
Thử: Nầy, ấy. Thử kinh: Kinh nầy.
Đại Thánh: Bực Thánh lớn. Từ ngữ nầy dùng để gọi: bực Phật, bực Đại Tiên. Trong các bài Kinh Phật giáo, Tiên giáo, Nho giáo, Đức Nhiên Đăng Cổ Phật, Đức Thái Thượng Đạo Tổ, Đức Khổng Tử đều được gọi là Đại Thánh. Ở đây, Đại Thánh là chỉ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Năng Cứu: Có khả năng cứu giúp.
Trọng bịnh: Bịnh nặng.
Tam tại: 3 thứ tai họa lớn, gồm : Hỏa tai (tai nạn do lửa như cháy nhà), Thủy tai (tai nạn do nước như lũ, lụt, sóng thần), Phong tai (tai nạn do gió như bão tố, lốc).
Bá nạn khổ: Trăm thứ tai nạn khổ sở.
Nam mô: Xin cầu nguyện với. ( Nam mô: do tiếng Phạn là Namah phiên âm ra, có nghĩa là: Qui y, qui mạng, chí tâm hướng, tức là quyết chí vâng theo lời Phật dạy, nguyện hiến trọn đời mình cho Đạo pháp. Về sau, từ ngữ Nam mô thường dùng làm tiếng khởi đầu cho câu cầu nguyện).
Đại Từ, Đại Bi: Đại là lớn, Từ là lòng thương tưởng lo lắng giúp ích cho cả chúng sanh được an ổn vui vẻ, Bi là lòng trắc ẩn thương cảm các cảnh khổ não của chúng sanh và muốn cứu vớt chúng sanh ra khỏi phiền não và tai họa.
Quảng đại: Lòng dạ rộng rãi. Linh: Thiêng liêng.
Quan Thế Âm Bồ Tát: Quan, cũng đọc là Quán: Xét thấu, xem xét rõ biết hết, Thế là cõi trần, Âm là tiếng nói, âm thinh, Bồ Tát là phẩm vị Bồ Tát. Quan Thế Âm Bồ Tát là vị Nữ Phật có pháp lực vô biên, có thể hiện ra 11 cái mặt, 1000 cánh tay, 1000 con mắt, để xem xét, nghe biết tiếng kêu cứu của chúng sanh khắp nơi trên cõi trần. Hễ ai thành tâm niệm tưởng và cầu cứu đến Ngài thì Ngài liền nghe biết và hiện đến cứu giúp cho tai qua nạn khỏi. Công đức của Ngài nhiều vô kể, xứng đáng đắc thành vị Phật cao siêu, nhưng Ngài vẫn muốn làm một vị Bồ Tát để thực hành Đại nguyện Cứu khổ Cứu nạn cho chúng sanh.
Trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vâng lịnh Đức Chí Tôn giữ chức Nhị Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Phật giáo.
Bá thiên vạn ức: Trăm, ngàn, muôn, 10 muôn, chỉ một số lượng nhiều lắm, không đếm hết được.
Hằng hà sa số: Nghĩa đen là: Số cát sông Hằng bên Ấn Độ. Nghĩa bóng là nhiều lắm, không đếm hết được.
Vô lượng công đức: Vô lượng là không đo lường được. Vô lượng công đức là công đức nhiều đến nỗi không thể đo lường hết được.
Phật cáo: Đức Phật bảo cho biết.
Phật cáo A-Nan ngôn: Lời của Phật bảo Ông A-Nan.
A-Nan: Tiếng Phạn là Ananda. Ông A-Nan là 1 trong 10 Đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca, sau được Nhứt Tổ Ma-Ha Ca-Diếp truyền Y bát để làm Nhị Tổ Phật giáo Ấn Độ.
Ông A-Nan nổi tiếng là người đa văn quảng kiến và có một trí nhớ tuyệt vời. Khi Đức Phật Thích Ca thuyết pháp, ông chú ý lắng nghe và nhớ được tất cả, có thể lập lại lời Phật mà không sai một tiếng. Do đó, sau khi Đức Phật tịch diệt, trong Đại Hội 500 A-La-Hán kết tập kinh điển lần thứ nhứt, ông A-Nan lên diễn đàn đọc lại tất cả lời Phật dạy một cách trung thực, ghi chép lại thành Kinh Tạng của Phật giáo.
Trong các ngôi chùa Việt Nam, trên điện thờ Phật, có đặt tượng ông A-Nan bên trái, biểu tượng bậc Thánh xem xét hư thực đúng sai trong các việc tổ chức đàn chay tại chùa.
Thử: Nầy, ấy. Thử kinh: Kinh nầy.
Đại Thánh: Bực Thánh lớn. Từ ngữ nầy dùng để gọi: bực Phật, bực Đại Tiên. Trong các bài Kinh Phật giáo, Tiên giáo, Nho giáo, Đức Nhiên Đăng Cổ Phật, Đức Thái Thượng Đạo Tổ, Đức Khổng Tử đều được gọi là Đại Thánh. Ở đây, Đại Thánh là chỉ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Năng Cứu: Có khả năng cứu giúp.
Trọng bịnh: Bịnh nặng.
Tam tại: 3 thứ tai họa lớn, gồm : Hỏa tai (tai nạn do lửa như cháy nhà), Thủy tai (tai nạn do nước như lũ, lụt, sóng thần), Phong tai (tai nạn do gió như bão tố, lốc).
Bá nạn khổ: Trăm thứ tai nạn khổ sở.
KINH:
Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn, tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn.
Nam mô Phật lực oai, Nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm, linh nhơn thân đắc độ.
Hồi Quang Bồ Tát, Hồi Thiện Bồ Tát, A-Nậu Đại Thiên Vương Chánh Điện Bồ Tát, Ma Kheo Ma Kheo, Thanh Tịnh Tỳ Kheo, quan sự đắc tán, tụng sự đắc hưu.
Chư Đại Bồ Tát, Ngũ Bá A La Hớn, cứu hộ ………(1)………ly khổ nạn.
![]()
(1)
v Nếu Cầu Bịnh thì đọc là: “đệ tử … (họ tên của bệnh nhân)… nhứt thân”
v Nếu cầu cho Cửu Huyền Thất Tổ thì đọc là: “Cửu Huyền Thất Tổ thoát”
v Nếu tụng Cầu An thì đọc là: ”Chúng sanh thoát”
Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn, tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn.
Nam mô Phật lực oai, Nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm, linh nhơn thân đắc độ.
Hồi Quang Bồ Tát, Hồi Thiện Bồ Tát, A-Nậu Đại Thiên Vương Chánh Điện Bồ Tát, Ma Kheo Ma Kheo, Thanh Tịnh Tỳ Kheo, quan sự đắc tán, tụng sự đắc hưu.
Chư Đại Bồ Tát, Ngũ Bá A La Hớn, cứu hộ ………(1)………ly khổ nạn.
(1)
v Nếu Cầu Bịnh thì đọc là: “đệ tử … (họ tên của bệnh nhân)… nhứt thân”
v Nếu cầu cho Cửu Huyền Thất Tổ thì đọc là: “Cửu Huyền Thất Tổ thoát”
v Nếu tụng Cầu An thì đọc là: ”Chúng sanh thoát”
DỊCH NGHĨA:
Nếu như có người tụng được một ngàn biến kinh thì một mình lìa xa tai nạn khổ sở; tụng đựơc một vạn biến kinh thì trọn nhà lìa xa tai nạn khổ sở.
Xin cầu nguyện với oai lực của Phật, xin cầu nguyện với sự che chở của Phật, làm cho con người tâm không còn ác, khiến cho con người thân được độ.
Hồi Quang Bồ Tát, Hồi Thiện Bồ Tát, Vô Thượng Đại Thiên Vương Chánh Điện Bồ Tát, Chư Đại Tỳ Kheo, Thanh Tinh Tỳ Kheo, việc phiền phức ở cửa quan được tiêu tan, việc thưa kiện được bãi bỏ.
Chư vị Đại Bồ Tát, năm trăm vị Thánh A-La-Hán cứu giúp che chở ……………….. lìa xa các tai nạn khổ sở.
Nếu như có người tụng được một ngàn biến kinh thì một mình lìa xa tai nạn khổ sở; tụng đựơc một vạn biến kinh thì trọn nhà lìa xa tai nạn khổ sở.
Xin cầu nguyện với oai lực của Phật, xin cầu nguyện với sự che chở của Phật, làm cho con người tâm không còn ác, khiến cho con người thân được độ.
Hồi Quang Bồ Tát, Hồi Thiện Bồ Tát, Vô Thượng Đại Thiên Vương Chánh Điện Bồ Tát, Chư Đại Tỳ Kheo, Thanh Tinh Tỳ Kheo, việc phiền phức ở cửa quan được tiêu tan, việc thưa kiện được bãi bỏ.
Chư vị Đại Bồ Tát, năm trăm vị Thánh A-La-Hán cứu giúp che chở ……………….. lìa xa các tai nạn khổ sở.
CHÚ THÍCH
Nhược: Nếu như. Hữu: Có. Nhơn: Người. Tụng: Tụng kinh.
Đắc: Được. Nhứt thiên: Một ngàn. (1000)
Biến: Một lượt. Một biến kinh là tụng một lượt kinh.
Nhứt thiên biến: Tụng bài Kinh nầy 1000 lần.
Tụng đắc nhứt vạn biến: Tụng được một vạn lần bài kinh nầy. Nhứt thân: Một thân nầy. Ly: Lìa xa.
Ly khổ nạn: Lìa xa tai nạn khổ sở.
Hiệp gia: Hiệp là gộp cả, gia là nhà. Hiệp gia là cả nhà, trọn nhà, nghĩa là tất cả những người trong một nhà.
Phật lực oai: Lực là sức, Oai là oai quyền. Phật lực oai là cái sức mạnh oai quyền của Phật. Phật lực hộ: Hộ là che chở giữ gìn. Phật lực hộ là cái sức hộ trì của Phật.
Sử nhơn: Sử là sai khiến, làm cho. Sử nhơn là sai khiến người, làm cho người. Vô ác tâm: Cái tâm không ác.
Linh nhơn: Linh là khiến cho. Linh nhơn là khiến cho người. Thân: Tấm thân, thân mình. Đắc độ: Được cứu giúp.
Đường thi: Bất tri can đảm hưng thùy thị,
Linh nhơn khước ức Bình Nguyên Quân.
Nghĩa là: Chẳng biết gan mật cùng ai tỏ,
Khiến người lại nhớ Bình Nguyên Quân.
Hồi: Trở về. Hồi quang: Ánh sáng phản chiếu trở lại.
Hồi thiện: Trở về điều lành.
A-nậu: Nói đầy đủ là A-Nậu-Đa-La, do phiên âm từ tiếng Phạn: Anouttara, nghĩa là Vô Thượng, cao hơn hết.
Chánh điện: Đền chánh, phần quan trọng nhất trong một đền thờ.
Ma Kheo: Nói tắt của từ ngữ: Ma-ha Tỳ-kheo. Ma-ha là đại, lớn. Ma Kheo là vị Đại Tỳ Kheo.
Tỳ Kheo: Tiếng Phạn là Bhiksu, phiên âm ra là: Bật-sô hay Tỳ Kheo. Đó là nhà sư Phật giáo giữ hạnh thanh tịnh và giữ 250 điều giới luật. Từ ngữ Tỳ Kheo có 4 nghĩa: -Tịnh khất thực, – Phá phiền não, – Tịnh trì giới, – Năng bố ma (có sức làm cho tà ma sợ sệt). Phụ nữ xuất gia tu theo hạnh Tỳ Kheo được gọi là Tỳ Kheo Ni.
Thanh tịnh: Thanh là trong sạch, tịnh cũng là trong sạch. Thanh tịnh là hoàn toàn trong sạch.
Quan sự: Những việc rắc rối của dân đem ra cửa quan giải quyết, hay những việc quan lại sách nhiễu dân chúng.
Đắc tán: Được tiêu tan hết. Tụng sự: Việc thưa kiện. Tụng là thưa kiện. Đắc hưu: Được bãi bỏ. Hưu là thôi, bỏ.
Ngũ bá A-La-Hớn: 500 vị A-La-Hán.
A-La-Hớn: hay A-La-Hán, nói tắt là La-Hán, do tiếng Phạn là Arahat, có nghĩa là: dứt phiền não, dứt sạch lỗi lầm, chẳng còn sanh ra ở cõi thế gian nữa. Đó là phẩm Thánh thứ 4 của Phật giáo. Muốn thành Bồ Tát, phải đắc La Hán trước.
Khi Đức Phật Thích Ca còn sống, Ngài chỉ thuyết pháp chớ không viết sách. Sau khi Ngài mất, Nhứt Tổ Ma-ha Ca-Diếp họp Đại hội 500 Thánh tăng học rộng, hiểu sâu, giới đức đầy đủ, đắc quả La Hán, họp tại động Tất-Ba-La, gần thành Vương xá, cử hành lễ kết tập kinh điển lần đàu tiên, tạo thành 3 Tạng kinh: Kinh, Luật, Luận. Đó là 500 vị A-La-Hán đầu tiên của Phật giáo.
Cứu hộ: Cứu là giúp đỡ cho qua lúc ngặt, hộ là trông nom che chở. Cứu hộ là giúp đỡ và che chở.
Đắc: Được. Nhứt thiên: Một ngàn. (1000)
Biến: Một lượt. Một biến kinh là tụng một lượt kinh.
Nhứt thiên biến: Tụng bài Kinh nầy 1000 lần.
Tụng đắc nhứt vạn biến: Tụng được một vạn lần bài kinh nầy. Nhứt thân: Một thân nầy. Ly: Lìa xa.
Ly khổ nạn: Lìa xa tai nạn khổ sở.
Hiệp gia: Hiệp là gộp cả, gia là nhà. Hiệp gia là cả nhà, trọn nhà, nghĩa là tất cả những người trong một nhà.
Phật lực oai: Lực là sức, Oai là oai quyền. Phật lực oai là cái sức mạnh oai quyền của Phật. Phật lực hộ: Hộ là che chở giữ gìn. Phật lực hộ là cái sức hộ trì của Phật.
Sử nhơn: Sử là sai khiến, làm cho. Sử nhơn là sai khiến người, làm cho người. Vô ác tâm: Cái tâm không ác.
Linh nhơn: Linh là khiến cho. Linh nhơn là khiến cho người. Thân: Tấm thân, thân mình. Đắc độ: Được cứu giúp.
Đường thi: Bất tri can đảm hưng thùy thị,
Linh nhơn khước ức Bình Nguyên Quân.
Nghĩa là: Chẳng biết gan mật cùng ai tỏ,
Khiến người lại nhớ Bình Nguyên Quân.
Hồi: Trở về. Hồi quang: Ánh sáng phản chiếu trở lại.
Hồi thiện: Trở về điều lành.
A-nậu: Nói đầy đủ là A-Nậu-Đa-La, do phiên âm từ tiếng Phạn: Anouttara, nghĩa là Vô Thượng, cao hơn hết.
Chánh điện: Đền chánh, phần quan trọng nhất trong một đền thờ.
Ma Kheo: Nói tắt của từ ngữ: Ma-ha Tỳ-kheo. Ma-ha là đại, lớn. Ma Kheo là vị Đại Tỳ Kheo.
Tỳ Kheo: Tiếng Phạn là Bhiksu, phiên âm ra là: Bật-sô hay Tỳ Kheo. Đó là nhà sư Phật giáo giữ hạnh thanh tịnh và giữ 250 điều giới luật. Từ ngữ Tỳ Kheo có 4 nghĩa: -Tịnh khất thực, – Phá phiền não, – Tịnh trì giới, – Năng bố ma (có sức làm cho tà ma sợ sệt). Phụ nữ xuất gia tu theo hạnh Tỳ Kheo được gọi là Tỳ Kheo Ni.
Thanh tịnh: Thanh là trong sạch, tịnh cũng là trong sạch. Thanh tịnh là hoàn toàn trong sạch.
Quan sự: Những việc rắc rối của dân đem ra cửa quan giải quyết, hay những việc quan lại sách nhiễu dân chúng.
Đắc tán: Được tiêu tan hết. Tụng sự: Việc thưa kiện. Tụng là thưa kiện. Đắc hưu: Được bãi bỏ. Hưu là thôi, bỏ.
Ngũ bá A-La-Hớn: 500 vị A-La-Hán.
A-La-Hớn: hay A-La-Hán, nói tắt là La-Hán, do tiếng Phạn là Arahat, có nghĩa là: dứt phiền não, dứt sạch lỗi lầm, chẳng còn sanh ra ở cõi thế gian nữa. Đó là phẩm Thánh thứ 4 của Phật giáo. Muốn thành Bồ Tát, phải đắc La Hán trước.
Khi Đức Phật Thích Ca còn sống, Ngài chỉ thuyết pháp chớ không viết sách. Sau khi Ngài mất, Nhứt Tổ Ma-ha Ca-Diếp họp Đại hội 500 Thánh tăng học rộng, hiểu sâu, giới đức đầy đủ, đắc quả La Hán, họp tại động Tất-Ba-La, gần thành Vương xá, cử hành lễ kết tập kinh điển lần đàu tiên, tạo thành 3 Tạng kinh: Kinh, Luật, Luận. Đó là 500 vị A-La-Hán đầu tiên của Phật giáo.
Cứu hộ: Cứu là giúp đỡ cho qua lúc ngặt, hộ là trông nom che chở. Cứu hộ là giúp đỡ và che chở.
KINH:
Tự ngôn Quan Thế Âm anh lạc bất tu giải, cần độc thiên vạn biến, tai nạn tự nhiên đắc giải thoát.
Tín thọ phụng hành, tức thuyết Chơn ngôn viết: Kim-Bà Kim Bà-Đế, Cầu-Ha Cầu-Ha-Đế, Đa-La-Ni-Đế, Ni-Ha-La-Đế, Tì-Lê-Ni-Đế, Ma-Ha-Dà-Đế, Chơn-Lăng-Càn-Đế, Ta-Bà-Ha.
Tự ngôn Quan Thế Âm anh lạc bất tu giải, cần độc thiên vạn biến, tai nạn tự nhiên đắc giải thoát.
Tín thọ phụng hành, tức thuyết Chơn ngôn viết: Kim-Bà Kim Bà-Đế, Cầu-Ha Cầu-Ha-Đế, Đa-La-Ni-Đế, Ni-Ha-La-Đế, Tì-Lê-Ni-Đế, Ma-Ha-Dà-Đế, Chơn-Lăng-Càn-Đế, Ta-Bà-Ha.
(Tụng xong 3 lần rồi niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)
DỊCH NGHĨA:
Lời nói của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát tự nó trong sáng an vui, không an vui, không cần phải giải thích thêm, siêng năng tụng ngàn muôn lần bài kinh, thì tai nạn tự nhiên được giải thoát.
Hãy tin theo, nhận lãnh và vâng lịnh thi hành, liền nói rõ câu Thần Chú là: Kim-Bà Kim-Bà – Đế,……..v.v….
Lời nói của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát tự nó trong sáng an vui, không an vui, không cần phải giải thích thêm, siêng năng tụng ngàn muôn lần bài kinh, thì tai nạn tự nhiên được giải thoát.
Hãy tin theo, nhận lãnh và vâng lịnh thi hành, liền nói rõ câu Thần Chú là: Kim-Bà Kim-Bà – Đế,……..v.v….
CHÚ THÍCH
Tự: Chính mình. Ngôn: Lời nói. Tự ngôn Quan Thế Âm: Tự lời nói ấy của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Anh lạc: Anh là trong sáng như ngọc, lạc là vui. Anh lạc là trong sáng an vui.
Bất tu giải: Bất là không, tu là cần thiết, giải là giải thích cho rõ ra. Bất tu giải là không cần thiết phải giải thích.
Cần độc: Cần là siêng năng, độc là tụng kinh.
Thiên vạn biến: Ngàn muôn biến kinh. Biến là một lượt kinh. Tự nhiên: Tự nó như thế.
Đắc giải thoát: Được giải thoát khỏi.
Tín thọ phụng hành: Tín là tuân theo, Thọ là nhận lãnh, Phụng là vâng theo, Hành là làm, thi hành.
Tín thọ là tin theo và thọ lãnh giáo pháp mà mình nghe được. Phụng hành là vâng lịnh mà thi hành.
Tín thọ phụng hành là tin theo và thọ lãnh giáo pháp mà mình đã nghe Phật thuyết giáp, rồi vang lịnh mà thi hành đúng như lời Phật dạy.
Thành ngữ “Tín thọ phụng hành” thường được đặt ở sau chót của những bài kinh mà Phật giảng thuyết.
Tức thuyết: Tức là liền ngay. Thuyết là giảng rõ ra. Tức thuyết là liền giảng rõ ra. Viết: Nói rằng.
Chơn ngôn: Chơn là thật, ngôn là lời nói. Tiếng Phạn: Đà-La-Ni (D’hârani) được người Tàu dịch ra là: Chơn ngôn, Thần chú, nghĩa là: những câu huyền bí có tác dụng rất linh diệu khi nhà đạo đọc ra, vừa đọc vừa bắt ấn. Những vị đạt được Chơn truyền, trong khi vừa bắt ấn vừa niệm Thần chú thì tâm của họ nhập cảnh Phật, đồng hóa với Phật.
Các Câu Chơn ngôn hay Thần chú đều bằng tiếng Phạn, và là mật ngữ, ý nghĩa rất bí mật, không thể giải thích bằng văn tự, nhưng khi đọc lên, âm ba phát ra có tác dụng rất huyền diệu về phương diện thiêng liêng vô hình, như: Trừ tà, giải bịnh, được sức hộ trì của chư Phật.
Các câu Chơn Ngôn hay Thần Chú thường có 3 chữ cuối cùng là: Ta-Bà-Ha.
Ta-Bà-Ha có nghĩa là: thành tựu, kiết tường, tiêu tai tăng phước, kính Phật chứng minh.
Anh lạc: Anh là trong sáng như ngọc, lạc là vui. Anh lạc là trong sáng an vui.
Bất tu giải: Bất là không, tu là cần thiết, giải là giải thích cho rõ ra. Bất tu giải là không cần thiết phải giải thích.
Cần độc: Cần là siêng năng, độc là tụng kinh.
Thiên vạn biến: Ngàn muôn biến kinh. Biến là một lượt kinh. Tự nhiên: Tự nó như thế.
Đắc giải thoát: Được giải thoát khỏi.
Tín thọ phụng hành: Tín là tuân theo, Thọ là nhận lãnh, Phụng là vâng theo, Hành là làm, thi hành.
Tín thọ là tin theo và thọ lãnh giáo pháp mà mình nghe được. Phụng hành là vâng lịnh mà thi hành.
Tín thọ phụng hành là tin theo và thọ lãnh giáo pháp mà mình đã nghe Phật thuyết giáp, rồi vang lịnh mà thi hành đúng như lời Phật dạy.
Thành ngữ “Tín thọ phụng hành” thường được đặt ở sau chót của những bài kinh mà Phật giảng thuyết.
Tức thuyết: Tức là liền ngay. Thuyết là giảng rõ ra. Tức thuyết là liền giảng rõ ra. Viết: Nói rằng.
Chơn ngôn: Chơn là thật, ngôn là lời nói. Tiếng Phạn: Đà-La-Ni (D’hârani) được người Tàu dịch ra là: Chơn ngôn, Thần chú, nghĩa là: những câu huyền bí có tác dụng rất linh diệu khi nhà đạo đọc ra, vừa đọc vừa bắt ấn. Những vị đạt được Chơn truyền, trong khi vừa bắt ấn vừa niệm Thần chú thì tâm của họ nhập cảnh Phật, đồng hóa với Phật.
Các Câu Chơn ngôn hay Thần chú đều bằng tiếng Phạn, và là mật ngữ, ý nghĩa rất bí mật, không thể giải thích bằng văn tự, nhưng khi đọc lên, âm ba phát ra có tác dụng rất huyền diệu về phương diện thiêng liêng vô hình, như: Trừ tà, giải bịnh, được sức hộ trì của chư Phật.
Các câu Chơn Ngôn hay Thần Chú thường có 3 chữ cuối cùng là: Ta-Bà-Ha.
Ta-Bà-Ha có nghĩa là: thành tựu, kiết tường, tiêu tai tăng phước, kính Phật chứng minh.
Link file kinh:
https://drive.google.com/file/d/1rXcjl7B2P6iGdHPVBgKrpCQnpq-2by9L/view?usp=sharing
https://drive.google.com/file/d/1rXcjl7B2P6iGdHPVBgKrpCQnpq-2by9L/view?usp=sharing
ConversionConversion EmoticonEmoticon